Mục đích đổi mới hệ thống chính trị?

bởi | Th7 21, 2023

Trước khi tìm hiểu sâu hơn, có thể bạn nên xem thêm bài viết có hay không chủ trương đa đảng. Ở bài viết này, chúng ta sẽ chứng minh rằng công cuộc đổi mới hệ thống chính trị của Đảng cộng sản chính là nhằm chuyển đổi hệ thống chính trị một đảng sang đa đảng. Việc chứng minh được dựa trên các Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương, và các bài viết phân tích của Hội đồng Lý luận Trung ương. Ngay cả sau khi đã xem xét rất kỹ lưỡng, tôi đã từng nhiều lần không tin, và có thể bạn cũng sẽ như vậy. Tuy nhiên, mọi cơ sở đều rất lô gíc, và mang tính hệ thống, để đi đến kết luận về chủ trương vừa nêu.

Ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng, người thường bị hiểu theo đuổi chính sách một đảng, có vẻ cũng gợi mở về đa đảng trong tuyên bố của mình, sẽ được chi tiết trong phần sau.

Lần đầu tiên “Đổi mới hệ thống chính trị” được nhắc đến trong Báo cáo chính trị Khoá VI. Kể từ đó, khái niệm này thường xuất hiện trong các Báo cáo chính trị cho đến nay. Nghĩa là cho đến Báo cáo chính trị Khoá XII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, khi bài viết này được thực hiện.

Nội dung theo Văn kiện

Trong phần này, chúng ta sẽ trích các nội dung liên quan đến “Đổi mới hệ thống chính trị” từ các Văn kiện Đảng, hay chính xác hơn là các Báo cáo chính trị. Bạn lưu ý rằng khái niệm “Đổi mới hệ thống chính trị” đôi khi được thay thế bởi “Đổi mới chính trị” hay một cụm từ khác có nghĩa tương đương. Ngoài ra, đổi mới chính trị nằm trong chương trình đổi mới toàn diện. Điều này được nhắc đến ngay trong đoạn mở đầu của Báo cáo chính trị Khoá VI.

Đồng thời, các Báo cáo chính trị nêu trên đều đã được Đại hội đại biểu toàn quốc thông qua. Chúng ta biết rằng Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản, theo Khoản 2, Điều 9, Điều lệ đảng. Vì vậy, hiển nhiên, Báo cáo chính trị đã được Đại hội thông qua là các cơ sở quan trọng nhất giúp chứng minh có hay không chủ trương Đảng đổi mới nhằm đa đảng.

Dưới đây trích nguyên văn nội dung liên quan đến đổi mới hệ thống chính trị – được in đậm – từ các Báo cáo chính trị. Do Báo cáo chính trị Khoá VIII không nêu cụ thể về đổi mới hệ thống chính trị nên không được trích dẫn.

Báo cáo chính trị Khoá VI

“Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”.

Báo cáo chính trị Khoá VII

“Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ, hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa đảng”.

Báo cáo chính trị Khoá IX

“Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới”.

Báo cáo chính trị Khoá X

“Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Báo cáo chính trị Khoá XI

“Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.

Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”.

Báo cáo chính trị Khoá XII

“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.

Rất dễ bị hiểu sai?

Trước hết, trong các Văn kiện Đảng, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ giải thích chi tiết, cụ thể nào về “Đổi mới hệ thống chính trị”. Nên chúng ta cũng không thể biết chắc chắn Đảng cộng sản đổi mới nhằm đa đảng có chính xác hay không. Tuy nhiên, ngay ở phần sau, bạn sẽ được phân tích cơ sở để tin rằng chủ trương Đổi mới hệ thống chính trị là chuyển đổi hệ thống một đảng sang đa đảng.

Từ nội dung Văn kiện, khái niệm “Đổi mới hệ thống chính trị” có vẻ rất dễ bị hiểu (một cách ngắn gọn) là đồng nghĩa với củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng cách hiểu này có vẻ không chính xác. Bởi vì ngay từ khi thành lập, dường như Đảng cộng sản đã phải nghĩ đến và thực hiện các giải pháp củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, chứ không phải cho đến tận Đại hội VI?

Không thể là sai sót?

Hiển nhiên, việc làm rõ khái niệm là vô cùng quan trọng, tại một văn bản cũng rất quan trọng. Điều này trở nên đặc biệt quan trọng khi nó liên quan đến đổi mới hệ thống chính trị. Hơn thế, khả năng rất cao, tham gia biên soạn hoặc soát xét văn bản còn có sự tham gia của Hội đồng lý luận Trung ương, sẽ được đề cập ngay sau đây. Một khi là những nhà khoa học chính trị, hơn ai hết, họ hiểu rất rõ việc đưa ra định nghĩa cho khái niệm là quan trọng như thế nào.

Vì vậy, một lần nữa, việc không giải thích rõ ràng khái niệm “Đổi mới hệ thống chính trị” là gì trong Văn kiện đảng không nên được xem là một sai sót, mà cần được xem là có chủ ý. Bởi dường như điều này nằm trong quan điểm chung của Đảng cộng sản, nghĩa là không thừa nhận công khai đa nguyên, đa đảng, đã được phân tích kỹ trong Lý do Đảng không thể công khai chủ trương đa đảng.

Định nghĩa của khái niệm

Để hiểu về “Đổi mới hệ thống chính trị” là gì, trước tiên, cần hiểu được khái niệm “Hệ thống chính trị”. Tốt nhất, chúng ta nên sử dụng định nghĩa của Hội đồng lý luận Trung ương.

Tại sao lại tốt nhất?

Là bởi vì, theo giới thiệu trên trang web về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng này:

“Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị, làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, về những chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận chính trị, phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo của Đảng”.

Nội dung định nghĩa

Bạn tham khảo kỹ hơn trong bài viết về định nghĩa cho khái niệm hệ thống chính trị trên trang web của Hội đồng lý luận Trung ương. Theo đó, hệ thống chính trị được định nghĩa như sau:

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị và chính trị – xã hội trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền”.

Như vậy, các đảng chính trị (đa đảng) nằm trong hệ thống chính trị.

Đổi mới hệ thống chính trị là gì?

Bạn tham khảo một bài viết khác về đổi mới hệ thống chính trị, cũng trên trang web của Hội đồng lý luận trung ương. Bài viết có tiêu đề “Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”.

Ở bài viết này, cụm từ “các đảng chính trị” hay “các đảng cầm quyền” được nhắc đến 7 lần!

Vẫn là chủ trương đa đảng?

Từ hai bài viết nêu trên của Hội đồng lý luận Trung ương, chúng ta thấy khả năng rất cao đổi mới hệ thống chính trị đồng nghĩa với chuyển đổi hệ thống chính trị từ một đảng sang đa đảng.

Nói cách khác, Hội đồng lý luận Trung ương hẳn là có chủ ý khi đưa khái niệm có chứa “các chính đảng”, “các đảng chính trị” hay “các đảng cầm quyền” vào hai bài viết nêu trên liên quan đến hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị? Thậm chí, đó chưa hẳn đã là chủ ý riêng của Hội đồng Lý luận Trung ương, mà còn là chủ ý của cấp lãnh đạo cao nhất trong Đảng cộng sản?

Ý nghĩa quan trọng của đổi mới

Chúng ta đang đề cập đến ý nghĩa quan trọng của đổi mới hệ thống chính trị rút ra từ nội dung Văn kiện Đảng đã nêu trên.

Theo các Báo cáo chính trị, có một điểm nổi bật, hay ý nghĩa quan trọng của đổi mới hệ thống chính trị, là gắn liền với dân chủ, hay quyền làm chủ của nhân dân. Bạn thấy rất rõ điều này trong các nội dung đã trích dẫn ở phần trước từ Báo cáo chính trị Khoá VI cho đến Báo cáo chính trị khoá XII.

Lý tưởng và hiện thực?

Ngoài ý nghĩa đã nêu, khi xem các nội dung từ Văn kiện, và không chỉ Văn kiện, chủ trương có vẻ rất lý tưởng. Thực tế xã hội và lý tưởng là một sự đối lập hoàn toàn, dù quá trình này đã trải qua một giai đoạn rất dài, tính bằng thập kỷ? Nhưng liệu có phải quá trình đổi mới là vô cùng phức tạp? Nó phức tạp đến mức ngay cả lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng phần nào, thậm chí cơ bản, thể hiện sự bất lực?

Dân chủ không thể thiếu đa đảng?

Dường như trong tất cả các học thuyết về xã hội dân chủ và thực tiễn ở các quốc gia dân chủ, đa đảng là thuộc tính tất yếu. Nói cách khác, như đã từng đề cập, xây dựng dân chủ mà thiếu đa đảng là bất khả thi. Hơn ai hết, hẳn những người lãnh đạo Đảng cộng sản cũng thấu hiểu thực tế này?

Khi đó, tất nhiên, Việt Nam không thể là một ngoại lệ!

Tại sao Đảng phải lãnh đạo?

Trở lại vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, chẳng hạn đã nêu tại Điều 4, Hiến pháp. Theo chủ trương của họ, có lẽ chúng ta, những người đối lập nói riêng, và người dân nói chung, nên xem Đảng cộng sản lãnh đạo quá trình. Kết quả là xã hội được chuẩn bị tốt hơn cho dân chủ, cũng như chuẩn bị tốt hơn cho hệ thống chính trị đa đảng.

Nói cách khác, ngay cả khái niệm “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” chưa hẳn đã phải là vấn đề thực sự quan trọng mà những người đối lập cần phải đặt mối quan tâm lớn. Như đã đề cập, có vẻ chúng ta nên xem đó là quá trình chuẩn bị tốt hơn cho một xã hội tự do và dân chủ thực sự. Hay chỉ nên xem “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” đơn thuần là một cách gọi cho quá trình này. Tương tự, kết quả cuối cùng chưa chắc đã phải là chủ nghĩa xã hội, mà có khi lại là tư bản chủ nghĩa. Điều quan trọng nhất, đó nên là xã hội tốt đẹp, quyền con người, quyền tự do và quyền làm chủ của nhân dân được đảm bảo.

Đối với một xã hội chưa được chuẩn bị tốt về tự do, dân chủ như Việt Nam, Đảng cộng sản mất vị trí lãnh đạo tức thời nên được xem là mối nguy hiểm. Sự nguy hiểm không chỉ là đối với đảng viên cộng sản, mà nguy hiểm còn liên quan đến an ninh quốc gia, hay toàn bộ người dân nói chung. Bởi vì không thiếu những kẻ cơ hội, cả bên trong và ngoài Đảng, bao gồm từ nước ngoài. Hơn thế, dường như có không ít trường hợp muốn trả thù. Nếu những người này có cơ hội thực hiện ý đồ, khả năng rất cao là xã hội chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, thậm chí tệ hại nhất là nội chiến.

Yếu tố khách quan cho đa đảng?

Dưới đây, chúng ta trích lại Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Khoá VI:

“Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập”.

Khẳng định vừa nêu một lần nữa được xác nhận bởi ông Nguyễn Phú Trọng trong bài phỏng vấn năm 2010:

“… Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng …”

Thực tế, ông Nguyễn Phú Trọng có nhiều tuyên bố về việc bảo vệ Đảng cộng sản. Quan điểm như vậy là hợp lý. Bởi như đã đề cập, nếu Đảng cộng sản sụp đổ tức thời hoặc suy yếu, mọi người dân đều có thể bị đặt vào rủi ro, hay phải gánh chịu Những cái giá rất đắt. Tuy nhiên, phát biểu với báo chí nêu trên cần được xem là liên quan trực tiếp nhất đến quan điểm của ông Trọng, hay chủ trương của Đảng cộng sản, về đa đảng. Dường như trong văn kiện, cũng như trong phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng, có gợi mở về thời điểm trong tương lai, mà khi đó sẽ xuất hiện các yếu tố cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng.

Vì vậy, sẽ là sai lầm lớn nếu ai đó nghĩ rằng ông Nguyễn Phú Trọng theo đuổi chủ trương một đảng duy nhất trong tương lai. Nhầm lẫn này có thể do chúng ta không phân biệt được “bảo vệ Đảng cộng sản”, “nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng”, và “theo đuổi chủ trương một đảng” là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Bởi sẽ rất bình thường nếu Đảng cộng sản mong muốn là một trong các đảng chính trị vững mạnh để cạnh tranh, khi chế độ đa đảng được thực thi.

Tại sao lại phải “úp mở” đa đảng?

Như vậy, chúng ta đã chứng minh một cách có cơ sở rằng Đảng cộng sản đổi mới chính trị nhằm đa đảng. Đây có thể tin là vấn đề quan trọng số một quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ một đảng sang đa đảng tiềm ẩn những rủi ro rất nguy hiểm. Vì vậy, một lần nữa, bạn cũng nên tìm hiểu kỹ càng hơn về Lý do Đảng không thể công khai chủ trương đa đảng.

0 Lời bình

Gửi Lời bình

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *